Diễn biến Cuộc_nổi_dậy_ở_Thất_Sơn_(1841)

Khởi đầu

Khoảng tháng 10 (âm lịch) năm Tân Sửu (1841), trong lúc quan quân nhà Nguyễn đang dốc sức đàn áp cuộc nổi dậy ở Lạc Hóa (Trà Vinh ngày nay), ở Ba Xuyên, thì cuộc nổi dậy ở Thất Sơn liền nổ ra.

Khởi đầu, quân nổi dậy không chỉ hoạt động trong vùng rừng núi Thất Sơn, mà còn phân tán thành nhiều toán nhỏ đi quấy rối suốt dọc kênh đào Vĩnh Tế đến tận Tân Châu (bên bờ sông Tiền, nay thuộc An Giang), buộc quân triều đình phải chia ra đối phó. Ngoài ra, lực lượng nổi dậy còn phối hợp chặt chẽ với quân nổi dậy ở Hà Âm của Hà Tiên[6].

Tuần phủ An Giang lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ nhận được tin, liền cấp báo cho triều đình Huế. Trong sách Đại Nam thực lục có chép lại lời tâu viên quan này như sau, trích:

Một dải kênh Vĩnh Tế, bên hữu ngạn từ Vĩnh Thông [thuộc Hà Âm] đến Tiên Nông [thuộc Hà Châu Hà Tiên], bên tả ngạn từ Vĩnh Lạc đến Tịnh Biên, bọn thổ phỉ kết đồn trại liên tiếp...mà liệu số quân ta có ít, phòng giữ không đủ...Nếu Thất Sơn chưa dẹp yên được thì vẫn làm ngăn trở cho phía sau kênh Vĩnh Tế, vậy nên một phen hết sức tiễu trừ để tuyệt hết mối lo về sau...[7]

Trận Tượng Sơn

Được tin, vua Thiệu Trị liền sai tướng Lê Văn Đức vào hiệp cùng quyền Tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển đem quân đi trấn áp. Sau khi thăm dò khả năng của đối phương, tướng Lê Văn Đức đã yêu cầu tướng Nguyễn Văn Chương mang quân đến trợ giúp. Nhận lời, tướng Tri Phương (lúc này vẫn còn mang tên là Nguyễn Văn Chương) cử ngay Nguyễn Lương Nhàn đem quân đi đường bộ, còn tự mình dẫn một cánh quân khác theo dòng kênh Vĩnh Tế vào thẳng căn cứ chính của quân nổi dậy ở Tượng Sơn (tức núi Tượng, một trong Bảy Núi).

Trong khoảng thời gian này (tháng Giêng năm Nhâm Dần [1842]), 75 chiến thuyền quân Xiêm đến đánh vào đảo Phú Quốc, một cánh quân Xiêm khác lại đến giúp quân Miên (Khmer) quấy rối bờ biển Hà Tiên. Khoảng tháng 2 năm ấy, quân Xiêm tràn vào Hà Tiên rồi tiến đến chiếm trọn vùng kênh Vĩnh Tế và vùng núi Cô Tô. Trước nguy cơ "thù trong giặc ngoài", vua Thiệu Trị cho quân chủ lực từ Huế cùng với lính thú từ Quảng Ngãi, Quảng Nam kéo vào tăng cường.

Đầu mùa hạ năm 1842, sợ quân nổi dậy ở Thất Sơn càng gắn kết với quân ngoại xâm thì tình hình càng thêm bất lợi, các viên tướng có nhiệm vụ bèn bàn nhau chia quân ra làm nhiều mũi cùng đánh ập các đồn trại của quân nổi dậy ở Tượng Sơn. Không chống đỡ nổi, quân nổi dậy chạy hết về núi Tà Béc, núi Cô Tô…rồi dựa vào chỗ hiểm để cố thủ.

Trên đường truy đuổi, tháng 4 (âm lịch) tướng Phạm Văn Điển mất vì bệnh, các đạo quân triều liền được lệnh tạm rời khỏi khu vực Thất Sơn và Vĩnh Tế để chuẩn bị cho một kế hoạch mới.

Trận Xà Tón

Tháng 5 (âm lịch) năm 1842, tướng Lê Văn Đức mở cuộc tấn công lần thứ hai. Lần này, ngoài lực lượng mà mình đã có, tướng Đức còn yêu cầu các cánh quân ở Hà Tiên kéo lên phối hợp, hòng tiêu diệt đối phương bằng một trận chớp nhoáng. Cả thảy gồm khoảng 5.000 quân, được chia thành 5 đạo, cùng tiến vào Xà Tón (tức Tri Tôn) bằng nhiều hướng.

Gần đến nơi, thì cánh tiền quân do tướng Tôn Thất Thường chỉ huy lọt vào trận mai phục. Từ các chỗ ẩn nấp, quân nổi dậy đồng loạt xông ra đáng giáp lá cà, vừa đánh vừa dụ quân triều về phía đầm lầy...Trước nguy cơ vỡ đội hình, tướng Thường đành liều mạng thúc quân xông tới, liền bị đối phương đâm trọng thương. Còn binh lính thì bị tấn công tới tấp, khiến xô cả vào trong đầm.

Kết cuộc, khoảng 600 biền binh đều tan tác. Số quan quân bị thương và chết hơn 40 người (trong số đó có một viên Suất đội bị chém chết tại trận), bỏ mất 8 cỗ súng quá sơn và súng tay cùng nhiều đạn dược. Các đạo quân đi sau, gặp quân lính đang tháo chạy về, cũng hoảng loạn theo...[8]

Kết thúc

Tuy bị thiệt hại, nhưng lực lượng quân triều vẫn còn đủ sức dẹp yên. Đợt tấn công đầu tiên của quân Xiêm đã bị chận lại ở khắp các mặt trận...Sách Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện của Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (biên soạn năm 1901), có chép lại sự kiện này như sau:

Phi Nhã Chất Tri đem quân Xiêm đến dựng đồn lũy ở bờ kênh Vĩnh Tế. Quan quân ta bèn chia ra nhiều cánh, đi tiễu trừ, giết và làm bị thương rất đông...Bọn giặc (do gián điệp Xiêm tổ chức) ở núi Tượngnúi Cấm nghe tin, bèn chạy trốn...[9]

Sách Việt Nam sử lược, kể chi tiết:

Khi quân của Nguyễn Tiến LâmNguyễn Công Trứ dẹp xong bọn Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Xiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc (chỉ quân nổi dậy ở Thất Sơn) để đánh phá. Vua Thiệu Trị bèn sai Lê Văn Đức làm Tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri PhươngNguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Xiêm và quân giặc thua to, phải rút về giữ Trấn Tây thành (Chân Lạp). Quan quân đuổi được quân Xiêm La ra ngoài bờ cõi rồi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu...[10]

Riêng ở mặt trận Xà Tón, tuy cánh tiền quân đã bị đẩy lui như đã kể trên, nhưng sau khi chấn chỉnh lại đội ngũ, lực lượng quân triều cũng đã đánh tan được quân Xiêm cùng quân nổi dậy ở địa phương, tái chiếm lại được vùng đất Cô Tô, Tà Béc vào khoảng tháng 6 năm 1842. Quốc Triều Chính Biên chép:

Tổng thống Lê Văn Đức kéo quân đến Xà Tón...đem súng lớn bắn phá đồn lũy giặc, giặc chạy tan. Rồi Nguyễn Tiến Lâm, Nguyễn Tri Phương cũng tới quân thứ cùng nhau tấn binh tới núi Cô Tô, giặc sợ trốn. Một số ra đầu thú gồm người Tàu và người Xiêm có tới số ngàn...[11]

Liền sau đó, Nguyễn Công Trứ lãnh trách nhiệm thành lập ấp, khuyến khích dân địa phương trở lại canh tác bình thường, nhưng kết quả không khả quan. Quân Xiêm cứ âm mưu trở lại. Theo sử gia Trần Trọng Kim, thì mãi cho đến tháng Hai năm Đinh Mùi (1847), khi triều đình phong cho Nặc Ông Đôn làm vua Chân Lạp, lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang. Từ đó việc ở phía Nam mới được yên [12].